Nhân kỷ niệm 126 năm sinh nhật của lãnh tụ kính yêu, cùng nhìn lại quãng thời gian nhọc nhằn khi Người hoạt động ở nước ngoài.
Tại
Lễ kỷ niệm lần thứ 126 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(19/5/1890 - 19/5/2015), do Ðại sứ quán Việt Nam tổ chức ở Pháp, ông
Han đơ-vi-lơ, Phó Tổng Giám đốc UNESCO đã phát biểu: “Các cuộc hành
trình trong cuộc đời đã khiến Bác Hồ trở thành công dân của thế giới,
đồng thời là đại sứ của Việt Nam trên khắp toàn cầu”. Thật vậy, cả
cuộc đời của Bác Hồ kính yêu là một cuộc hành trình không mệt mỏi vì
độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Ngày 05/6/1911 đã
trở thành một dấu mốc đặc biệt quan trọng, không chỉ trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của Bác, mà còn đối với lịch sử của cả một dân tộc, Bác
Hồ, lúc đó là người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, với tên mới
là Văn Ba đã rời Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) ra đi với
một hoài bão lớn, nung nấu một quyết tâm cháy bỏng đó là giành “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Cuộc
hành trình qua 3 đại dương, 4 châu lục Á, Âu, Phi, Mỹ và gần 30 quốc
gia, hàng trăm thành phố lớn, nhỏ, tiếp xúc với nhiều dân tộc, nhiều nền
văn hóa đã đưa Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng vô sản.
Bến cảng Sài Gòn ngày ấy. Ảnh internet
Bến cảng Sài Gòn ngày nay. Ảnh internet
Từ
đầu thế kỉ XX, dưới ách thống trị của chế độ thực dân phong kiến, chứng
kiến nền độc lập của dân tộc bị xâm phạm, cảnh nhân dân ta “một cổ hai
tròng” chịu nhiều lầm than, cực khổ, bị chà đạp, áp bức, bóc lột tàn
bạo, đã có rất nhiều phong trào yêu nước của các văn thân sĩ phu yêu
nước nổ ra như phong trào Cần Vương, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Yên
Thế, phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh, phong trào Đông kinh nghĩa
thục của Phan Bội Châu….nhưng tất cả đều thất bại.
Người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rất ngưỡng mộ và kính trọng lòng
yêu nước dũng cảm, kiên cường của các bậc tiền bối, nhưng với tấm lòng
yêu nước sâu sắc, sự trăn trở về vận mệnh dân tộc, bằng sự hiểu biết của
bản thân, Nguyễn Tất Thành sớm nhận ra con đường do những người đi trước mở ra sẽ không giải phóng được dân tộc mà cần thiết phải có con đường mới phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc; phải
ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước độc lập phát triển như thế nào
để trở về giúp đồng bào ta, đất nước ta thoát khỏi cảnh áp bức, nô lệ.
Nung nấu quyết tâm đi tìm một con đường cứu nước mới, chàng thanh niên
Nguyễn Tất Thành đã đi bộ từ Phan Thiết, vượt qua những khó khăn khắc
nghiệt của thời tiết, nhiều khi lả đi vì đói, vì mệt, vì khát để tới Sài
Gòn, tìm cơ hội thực hiện ý định cháy bỏng đó. Đây chính là bước ngoặt
quan trọng, một sự lựa chọn lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng, mở đầu
cho quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành.
Tàu
Latouche Treville, con tàu đã đưa người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành ra đi tìm đường cứu nước từ Cảng Sài Gòn. Ảnh internet
Đến
Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành nhanh chóng tìm được một trường kĩ thuật do
Pháp quản lí, ở đó thủy thủ Việt Nam được dạy về hàng hải, về giao thông
vận chuyển hàng,…Trong con mắt của các viên chức nhà trường, người
thanh niên dù gầy gò, có giọng nói Trung Bộ nhưng lại tỏ ra thông minh,
nói được tiếng Pháp thành thạo, có thể phù hợp để đào tạo thành một thủy
thủ. Nguyễn Tất Thành phải học 3 năm để hoàn thành khóa học. Trong
những ngày đó, anh thường xuyên đến bến cảng Sài Gòn. Hình ảnh những
chiếc tàu neo bến làm lòng anh không yên. Và ngày 5/6/1911, trên con tàu Amiral La Touche De Tréville
từ cảng Sài Gòn, tự giới thiệu là Văn Ba xin làm phụ bếp, Nguyễn Tất
Thành đã rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành trình 30 năm tìm con đường giải
phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Vào thời điểm đó, không ai biết rằng
vận mệnh của dân tộc Việt Nam đã gắn liền với quyết định ra đi của một
con người mà lịch sử đã chứng tỏ là sáng suốt phi thường.
Đối
với những người trên tàu, anh thanh niên Văn Ba trông giống một học
sinh hay một sinh viên hơn là một công nhân. Vị thuyền trưởng hỏi anh có
thể làm được gì trong nhà bếp, anh chỉ có một câu trả lời duy nhất:
“Tôi có thể làm tất cả những gì ông cần!”. Ngay ngày hôm sau, anh đã bắt
đầu một công việc mà trước đó hoàn toàn xa lạ với anh.
Anh
tất bật từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối. Một ngày làm việc của anh bắt đầu
bằng việc rửa sạch khu bếp, phục vụ cho gần 800 hành khách và thủy thủ
trên tàu.
- Văn Ba, lấy than!
- Văn Ba, quạt bếp!
- Văn Ba, mang rau!
- Văn Ba,…
Ngày
nào anh cũng nghe những câu nói ấy và thoăn thoắt làm việc: Lấy than,
quạt bếp, mang rau, khoai tây, thịt, cá từ kho lên bếp…Và có một công
việc gần như ngoài sức tưởng tượng của anh là phải rửa sạch những chiếc
nồi đồng to, nặng không thể nhấc lên được. Công việc của anh luôn tất
bật, lại thường xuyên đi giữa căn bếp nóng nực và phòng kho lạnh buốt,
hoặc khuân vác đồ nặng trên con tàu chòng chành, lên những bậc thang
chật hẹp từ kho lên nhà bếp. Nhưng, người thanh niên gầy gò ấy luôn hoàn
thành công việc, kể cả những việc hoàn toàn mới mẻ như gọt củ cải,
khoai tây, những thứ mà anh chưa nhìn thấy bao giờ.
Thủy
thủ và đầu bếp đã bắt đầu nể phục anh không chỉ anh đã hoàn thành công
việc hết sức nặng nề mà họ đã khám phá ra một điều rằng, người thanh
niên ấy là một người thông minh, hiếu học. Mặc dù đã mệt lả sau một ngày
làm việc nhưng anh Ba vẫn không chịu đi ngủ mà còn thức đến 23 giờ
khuya hoặc lâu hơn nữa để đọc sách hoặc viết lách. Một số người thủy thủ
và phụ bếp mù chữ đã nhanh chóng kết thân với anh. Họ vui mừng khi được
anh sẵn sàng viết hộ những bức thư gửi cho người thân và gia đình. Anh
còn dạy họ học tiếng Việt. Họ giúp anh rửa rau củ, nói chuyện với anh về
nước Pháp, về người dân Pháp. Một kinh nghiệm đầu tiên nhưng quý giá mà
anh nhận ra được: Cũng có cả những người Pháp tốt bụng. Kinh nghiệm này
đã bổ sung cho nhận thức của anh về quan hệ sau này đối với đất nước và
con người Pháp.
Với
một sự mẫn cảm đặc biệt, Nguyễn Tất Thành không đi sang nước Nhật,
không đi Trung Quốc…mà Người sang các nước Tây Âu, sang nước Pháp, đến
tận nơi nước đang cai trị mình, đến tận châu Âu, nơi đang có sự phát
triển vượt bậc về kinh tế, về văn hóa, về chính trị để tìm hiểu những
truyền thống tự do, bình đẳng, bác ái và nền văn minh của chính quốc và
tìm hiểu nơi đã sinh ra mọi chế độ thực dân thối nát và cực kỳ tàn bạo
như chính Người đã thấy trên đất nước mình. Tại sao lại như vậy? Năm
1923, tại Mát-xcơ-va, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Tạp chí “Ngọn
lửa nhỏ”, Người đã giải thích quyết định về sự lựa chọn của mình như
sau: “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe những từ ngữ tiếng
Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái - đối với chúng tôi lúc ấy, mọi người da
trắng được coi là người Pháp - thế là tôi muốn làm quen với văn minh
Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”.
Trong
vòng mười năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Người đã tận dụng mọi cơ hội
để được đến nhiều nơi trên thế giới. Bàn chân của Người đã từng in dấu
trên nhiều nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Đặc biệt Người đã dừng
chân khảo sát khá lâu ở ba nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và
Pháp. Trên suốt chặng đường bôn ba, cuộc sống đầy gian khổ không làm
người chùn bước, trái lại, càng tôi luyện, hun đúc lòng yêu nước nồng
nàn với mục tiêu giải phóng dân tộc kiên định. Với những chuyến đi,
Người tranh thủ mọi thời cơ để học hỏi, nghiên cứu các học thuyết cách
mạng, hòa mình vào thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động ở các nước tư bản và thuộc địa, từ đó Người đã bổ sung được
cho mình những kiến thức vô cùng phong phú với một tầm nhìn hết sức
rộng lớn và bao quát. Từ đó Người đã rút ra kết luận là chủ nghĩa đế
quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ cho giai cấp công nhân và
nhân dân ở các nước chính quốc cũng như thuộc địa. Chính chủ nghĩa yêu
nước cùng với những năm tháng tìm tòi không mệt mỏi về lý luận và hoạt
động trong phong trào công nhân quốc tế, người thanh niên Việt Nam
Nguyễn Tất Thành bất chấp mọi hiểm nguy, đến với chủ nghĩa Mác Lênin,
tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp cuối năm 1920, trở thành nhà hoạt
động quốc tế xuất sắc Nguyễn Ái Quốc. Sớm nhận thức được xu thế phát
triển tất yếu của lịch sử và tính chất của thời đại mới mà Cách mạng
Tháng Mười mở ra, Người xác định con đường cứu nước, con đường giải
phóng dân tộc đúng đắn, khám phá ra chân lý lịch sử: “Chỉ có chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức
và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Chủ nghĩa Mác - Lênin. Ảnh internet
Người
đã viết: “Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi,
sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một
mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông
đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng
ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo
Lê-nin, tin theo Quốc tế III”.
Từ
năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá Chủ nghĩa
Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam,
chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tác
phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường Kách mệnh”, đặc biệt là
việc xuất bản tờ báo Thanh niên ra ngày 21-6-1925, Người đã chuẩn bị về
đường lối chính trị để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong
thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán
bộ với việc Người lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925), tổ
chức nhiều lớp đào tạo cán bộ và gửi đi học ở Liên Xô ... Khi điều kiện
thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 03-02-1930, dưới sự chủ trì của Đồng
chí Nguyễn Ái Quốc tại Hương Cảng (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất 3 tổ
chức Cộng sản đã nhất trí thành lập một đảng thống nhất là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một
Đại hội thành lập Đảng. Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp
Chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại
trong Cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính
trị, về con đường cứu nước, cứu dân, thống nhất đất nước, thoát khỏi ách
áp bức của thực dân, phong kiến, thoát khỏi bần cùng, lạc hậu.
Mùa
Xuân năm 1941, sau hơn 30 năm bôn ba nước ngoài, rời xa Tổ quốc, ngày
28/1/1941, Người về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, Người chỉ ra rằng, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, con
đường duy nhất phải theo là con đường cách mạng dân tộc dân chủ do Đảng
tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đánh đổ đế quốc, thực dân,
giành độc lập dân tộc, sau đó tiến lên thực hiện cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Ngày 19/5/1941, giữa vùng núi rừng Pắc Bó, theo sáng kiến của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Mặt trận Việt Minh ra đời giữa lúc nhân dân Việt
Nam đang rên xiết trong cảnh một cổ hai tròng, vận mệnh dân tộc đang
trong cảnh nước sôi lửa nóng.
Với
một quyết tâm được xác định rõ trong chương trình của mình “làm cho
nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, làm cho dân Việt Nam được sung
sướng tự do”, Mặt trận Việt Minh đã giương cao ngọn cờ giải phóng dân
tộc, tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong cuộc đấu tranh giành
độc lập tự do cho Tổ quốc. Sự thành lập và hoạt động của Việt Minh đã
trở thành nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
1945. Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời, Nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đánh dấu
một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc
Việt Nam; chứng minh sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, rèn luyện. Tuy
nhiên, nền độc lập của nước ta một lần nữa bị thực dân Pháp chà đạp,
tháng 12/1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động toàn quốc kháng
chiến với quyết tâm: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Với ý chí quyết tâm đó, quân và dân
ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp, đỉnh
cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động
địa cầu ngày 07/5/1954. Thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ chấm dứt sự
thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa
xã hội, làm hậu phương vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Trong suốt 21 năm kiên trì đấu tranh kết thúc
với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng
lợi vĩ đại này, là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân
tộc, là sự kiện có tầm quốc tế và có tính chất thời đại sâu sắc, mở ra
một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của nước Việt Nam độc lập, thống nhất và
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng sáng tạo học thuyết
Mác Lênin, thể hiện tính qui luật của sự phát triển lịch sử của xã hội
Việt Nam, trở thành quan điểm xuyên suốt trong toàn bộ tư tưởng và sự
nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Thực tế lịch sử đã
chứng minh, đó chính là Đường cách mệnh cho dân tộc ta mà Người đã chọn,
sự lựa chọn lịch sử đúng đắn và duy nhất!
Đã hơn 45 năm kể từ ngày Bác đi xa, nhưng trong
lòng các thế hệ Việt Nam, Người vẫn còn sống mãi. Tư tưởng, tấm gương
đạo đức sáng ngời của Bác luôn soi rọi con đường cách mạng trong mỗi
bước đi lên của đất nước. Nhắc lại hành trình cứu nước 104 năm về trước
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi chúng ta đều khắc ghi sâu trong tim lòng
biết ơn vô hạn đối với những hi sinh lớn lao mà Bác đã trải qua trong
suốt 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước. Đó là dấu mốc lịch sử quan trọng
và thiêng liêng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nay đất nước ta
bước vào một thời đại mới, một kỷ nguyên mới, đang khoác trên mình diện
mạo mới, đổi thay, hội nhập và ngày càng phát triển, toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân ta nguyện vững bước trên con đường cách mạng mà Đảng,
Bác Hồ đã lựa chọn, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, “sánh vai với các cường quốc năm châu” như ước mong giản
dị của Người!
Huyền Trang (tổng hợp)
0 nhận xét